Saturday, August 5, 2017

Thám hoa Giang Văn Minh

Danh Nhân Nước Việt

Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Lê. Ông được phong là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh”, là người anh hùng đã kiên cường bất khuất, đối đáp trước mặt vua Minh, bị hành hình vào năm 1638.

Giang Văn Minh sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Ông đỗ đầu kỳ thi Hội, khi thi Đình, đỗ Thám hoa khoa Mậu Thìn, đời vua Lê Thần Tông. Sau đó, ông được bổ nhiệm vào các chức vụ: Binh khoa Đô cấp (1630), Thái bộc Tự khanh (1631).
Năm 1637, Giang Văn Minh và Thiêm đô Ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.
Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt với mục đích kéo dài cuộc chiến tranh Lê – Mạc. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh vào năm 1638 nhưng khi vào triều kiến, vua nhà Minh lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ”. Ý của vua Tàu là không muốn công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ việc ngoại giao với nhà Mạc.
Trong lúc triều kiến, vua Minh đã ngạo mạn ra một câu đối cho sứ bộ Đại Việt bằng câu
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”.
Câu này có ý nghĩa là “Cột đồng nay rêu đã xanh”. Nó hàm ý nhắc lại chuyện viên tướng Mã Viện từng dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó đã đặt trồng một trụ đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong).
Trước sự ngạo mạn đó, sứ thần Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”
Nghĩa là “sông Bạch Đằng từ ngàn xưa đến nay máu vẫn còn đỏ”.
Câu đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng. Lần đầu tiên là đức Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán. Lần thứ hai là quân dân nhà Tiền Lê đánh tan quân Tống, và lần thứ ba là đức Hưng Đạo Vương phục kích tiêu diệt quân Mông Cổ.
Câu đối này như một cái tát giáng thẳng vào mặt vua Minh, trước văn võ bá quan của triều đình và sứ thần các nước. Vua nhà Minh nổi điên, quên cả thể diện, bất chấp luật lệ bang giao là cấm giết sứ thần, đã ra lệnh hành hình Giang Văn Minh bằng cách đổ nước đường nóng vào mắt và miệng ông, rồi mổ bụng để xem gan mật của sứ thần Đại Việt to đến độ nào.
Sau khi hành hình, vua Minh bình tĩnh lại và nể phục tinh thần uy dũng của Giang Văn Minh, nên cho người ướp xác ông đưa về nước.
Khi linh cữu về đến kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng cùng đến lễ bái và truy phong chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”
Nghĩa là sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ.
Mộ và nhà thờ ông hiện ở đồng Dưa, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Tại Hà Nội hiện nay có con đường mang tên Giang Văn Minh tại quận Ba Đình.
*****
Hơn 400 năm về trước, Đại Việt là một nước nhỏ luôn bị đế quốc Trung Hoa dòm ngó, việc giao hảo là một chính sách ngoại giao hàng đầu của triều đình, nên hàng năm đều cử sứ thần sang Tàu để triều cống. Nhưng quan trọng là các sứ thần phải gìn giữ thể diện và sĩ khí quốc gia. Đây là trọng trách nặng nề, vì thế những người được chọn, không những giỏi về văn chương, có tài hùng biện, mà còn phải can trường với tinh thần bất khuất.
Người xưa nói: “Gian nan đi sứ, thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Nghĩa là mười người đi sứ chỉ có một người trở về. Đoàn sứ thần hàng trăm người phải đi đường biển, chịu sóng gió, có khi mất mạng vì bão táp. Nếu đi đường bộ thì gian truân hơn, phải băng qua đồi núi, vượt “sơn lam chướng khí”. Trong thời điểm đi sứ của Thám Hoa Giang Văn Minh được xem là quá nguy hiểm, quân nhà Mạc sẵn sàng phục kích giết sứ thần, đoạt lấy cống phẩm quý hiếm, vừa phá việc cầu phong của vua Lê. Nhưng ông đã hoàn thành nhiệm vụ, đã trung dũng quật cường, hiên ngang thốt lên câu đối đề cao truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Đọc lại trang sử mấy trăm năm trước, nhìn nước Việt dưới thời cộng sản hiện nay, những ai còn nặng nợ với núi sông chắc chắn phải ngậm ngùi khi nhìn thấy thái độ thần phục “thiên triều” của tập đoàn CSVN, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng. Tập đoàn này, từ trong tiềm thức đã chấp nhận thân phận nô lệ giặc Tàu, nên đã thể hiện qua hành động buộc công ty Repso phải ngừng khai thác dầu khí tại bãi Tư Chính và giao lại cho Bắc Kinh.
Một tập đoàn lãnh đạo, mà từ trên xuống dưới, đều khom lưng cúi đầu trước Tàu Cộng mà không cảm thấy xấu hổ với các bậc tiền nhân, thì hiểm họa mất nước vào tay lũ giặc Tàu là chuyện không thể tránh khỏi.
Liệu linh hồn của Thám hoa Giang Văn Minh có thể an nghỉ khi thấy con cháu của mình đang cung kính, lắng nghe những lời dạy dỗ về “16 chữ vàng” từ Tàu Cộng hay không? Câu trả lời cũng là câu kết luận cho vận mệnh của đất nước VN trước thời kỳ “nô lệ mới”.
Việt Thái

No comments:

Post a Comment